LTS: Nhiều thập kỷ trôi qua, cuộc sống người đồng bào Mông ở Thanh Hóa chỉ dựa vào nương rẫy nên cái đói, cái nghèo vẫn đeo bám họ qua bao đời. Thế nhưng, khi những người con đồng bào Mông đầu tiên đi xuất khẩu lao động thì cuộc sống của họ đã khởi sắc. Nhiều ngôi nhà to đẹp, khang trang mọc lên, chất lượng cuộc sống được cải thiện rõ rệt, họ đã dần thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Từ đó để đồng bào Mông nhận thấy, con đường thoát nghèo ngắn nhất là xuất khẩu lao động.
![]() |
| Ông Sùng A Xay đã có tuổi thơ chìm ngập trong bóng tối nhưng với ý chí, sự quyết tâm ông đã vươn lên mạnh mẽ, không cam chịu số phận. |
Tuổi thơ gắn với bóng tối
Cha mất khi cậu bé Xay vừa tròn 7 tháng tuổi, mẹ đi lấy chồng khi cậu vừa mới lên 3. Thế là cậu bé Xay về ở với người chú ruột, thiếu thốn tình thương, hơi ấm của mẹ. Kể từ đó, tuổi thơ của cậu bé Xay lớn lên cùng với nước mắt, bóng tối và đói rét. Đến tuổi đi học, cậu bé Xay phải một mình vào ở trong rừng để chăn trâu bò thay vì đến trường. Hàng tháng cậu bé Xay mới được về nhà lấy gạo một lần. Mới 7 tuổi nhưng cuộc sống của Xay tự lập giữa nơi rừng thiêng nước độc.
Màn đêm buông xuống, giữa rừng sâu, tiếng nước suối chảy róc rách, tiếng kêu của muông thú làm cho cậu bé sợ đến chết lặng. Khi ấy cậu bé Xay chỉ ước có cha mẹ bên cạnh để được bảo vệ. Mỗi khi tết về, cậu bé Xay lại nhớ cha mẹ da diết, lòng quặn lại. Trong giấc ngủ, cậu bé Xay mơ về một gia đình có cha mẹ, mỗi dịp tết đến được ăn cơm trắng, có thịt, có áo mới tự tay mẹ thêu. Thế mà từ khi 7 đến 20 tuổi, tết của cậu bé Xay chỉ có sương núi lạnh buốt da thịt cùng tiếng suối, tiếng muông thú làm bạn.
Đến năm 20 tuổi, Xay quyết định bỏ chòi, bỏ rừng, quyết tâm đi học chữ. Vậy là con đường tìm chữ của cậu bé Xay bắt đầu từ đây với bao chông gai, khổ cực. Trong suốt 3 năm học, Xay sống nhờ vào tình yêu thương của thầy giáo chủ nhiệm lớp. Từ quần áo, sách vở, chỗ ăn ngủ...đều do thầy giáo chủ nhiệm chu cấp cho Xay. Mỗi dịp hè đến, ban ngày Xay đi làm thuê, làm mướn kiếm thêm cơm trắng lót dạ, tối đến thì đốt mỡ lợn để luyện đọc, làm toán... Mọi cố gắng để thoát khỏi tăm tối, nhưng mới học chữ được 3 năm thì người chú ruột lại tìm thấy và bắt Xay về nhà làm nương rẫy.
Xay buộc phải nghỉ học trở về bản. Cùng năm ấy Xay gặp người vợ hiện tại, có cha mẹ đều nghiện ma túy, bị gán trả nợ. Hai số phận éo le gặp nhau và rồi họ quyết định cùng góp gạo thổi cơm chung vào năm 1987.
Sau khi lấy nhau, mẹ Xay phải quay về bỏ ra 120 đồng bạc trắng do người chú ruột đòi tiền nuôi dưỡng, tiền cưới. Kể từ khi ấy Xay mới được là người tự do đúng nghĩa. Năm 1992, vợ ông sinh người con trai đầu lòng Sùng A Pó.
![]() |
| Sau nhiều lân di cư, đến khi về sống tại bản Khằm 1, với bản chất siêng năng, chịu khó, cuộc sống của gia đình ông Xay đã trở nên tốt đẹp hơn. |
Những quyết định di cư mang tính lịch sử
Với suy nghĩ không thể mãi đói nghèo, không thể mù chữ, năm 1995 ông quyết định đưa gia đình di cư từ Sơn La về Khu bảo tồn Pù Hu rồi về Tà Cóm, xã Trung Lý. Rồi 8 đứa con nữa lần lượt ra đời. Ông Xay nhớ lại, ngày ấy Tà Cóm với nhiều cái không như: không đường, không điện, không trạm y tế.. chỉ có đói nghèo, lạc hậu và thuốc phiện.
Dù có 9 người con nhưng ông Xay nghĩ khác, ông quyết tâm cho con học cái chữ, để cuộc đời chúng không khổ như ông từng trải qua. Ban ngày ông cùng vợ đi làm, đêm xuống ngồi giám sát các con học bài. Đứa nào có ý định nghỉ học là ông răn đe, khuyên bảo, kiên quyết từ mặt. Năm 2003, cậu con trai Sùng A Pó rời bản Tà Cóm, lưng gùi gạo đi bộ hơn 50km đường rừng ra trung tâm xã Trung Lý học cấp 2. Dấu chân trên con đường tìm chữ của Pó và những người bạn in hằn trên từng cánh rừng, con suối. Trên đường đi, lúc đói Pó và các bạn sẽ lấy cơm nắm ra ăn, dùng nước suối làm canh.
Ông Xay thấy con lội rừng cắt núi đi học trong lòng như lửa đốt. Nghĩ tới những đứa con còn lại liệu có thể bền bỉ theo học như Pó. Hay rồi cái đói, cái khổ lại bắt chúng phải bỏ học giữa chừng. Năm 2006, ông Xay lại táo bạo 1 lần nữa di cư từ Tà Cóm ra bản Khằm 1, xã Trung Lý để thuận tiện cho con cái đi học.
Cả gia đình dắt theo 14 con trâu, 5 con bò, 26 con dê cùng quần áo, xoong nồi, bát đũa rời bản. Đứa lớn như Pó thì địu em, bố mẹ gùi theo đồ đạc. Tờ mờ sáng rời Tà Cóm khi màn đêm buông xuống cả gia đình mới tới được bản Khằm 1.
Ông Xay kể lại, bản Khằm 1 ngày ấy người nghiện ma túy nhiều lắm, những vị trí đất đẹp đã có người ở. Ông Xay chọn 1 quả đồi thoai thoải, giáp với quốc lộ 217 để ở. Người Mông ở bản xì xào, nghĩ rằng ông bị tâm thần nên ở nơi được cho nhiều ma quỷ nhất bản. Vợ ông cũng rất e ngại, ông Xay động viên vợ “họ xấu, họ nghiện nhưng mình không được sợ, phải làm hết sức nuôi 9 đứa con, rồi cho chúng đi học”.
Sùng A Pó đi học đại học, ông Xay bán không biết bao nhiêu con trâu, con bò. Ông Xay nhớ lại có lần buộc cả 3 con vào thừng đem xuống chợ xã bán. Có thời điểm, vợ chồng ông Xay có tới hơn 50 con trâu bò, nhưng cứ vơi dần trên con đường tìm chữ của các con. Nhưng cả 9 người con của ông Xay đều học hết lớp 12.
![]() |
| Những đứa con biết nghe lời, chăm chỉ học tập và lao động đã đưa kinh tế gia đình ông Xay trở thành điểm sáng của bản Khằm 1. |
Người Mông đầu tiên đi xuất khẩu lao động
Ngày con trai Sùng A Bua thi Học viện Biên phòng ông Xay khấp khởi hi vọng. Khi biết con trai thiếu 1 điểm ánh mắt ông chùng xuống, lòng nặng trĩu. Sau đó, Bua đi làm công ty Sam Sung ở Bắc Ninh nhưng chẳng tích lũy được gì.
Ông Xay khuyên Bua nên đi xuất khẩu lao động mới có tương lai, có tiền tích lũy. Nghe lời khuyên của bố, Bua đăng ký học rồi thi đậu tiếng Nhật, năm 2021 thì bay sang xứ người. Để có tiền lo chi phí cho con đi Nhật, ông Xay đã bán 6 con bò, 8 con dê, vay thêm anh em được 200 triệu. Số tiền tích lũy được, Bua gửi về cho bố mẹ cùng nuôi các em ăn học. Hết hạn hợp đồng cuối năm 2024, Bua xin gia hạn tiếp tục lao động ở Nhật.
Nhận thấy đi xuất khẩu lao động có tính ổn định và hiệu quả, ông Xay tiếp tục quyết định cho con trai Sùng A Chu và Sùng Thị Dơ học tiếng Nhật rồi đi xuất khẩu lao động sau khi đã hoàn thành chương trình học cấp 3.
Ông Xay chia sẻ: Đi xuất khẩu lao động sẽ có thu nhập cao và ổn định hơn. Anh đi trước có tiền gửi về cùng bố mẹ nuôi em ăn học, học xong các em lại đi xuất khẩu lao động để có tiền tích lũy cho cuộc sống sau này.
“May có 3 đứa đi xuất khẩu lao động gửi tiền về lo cho em trai Sùng A Phình đang học Đại học Y Thái Nguyên. Chứ giờ trâu bò đã bán hết, sức khỏe hai vợ chồng tôi cũng yếu đi nhiều” - ông Xay cười vui.
Bằng nghị lực phi thường, người đàn ông dân tộc Mông - Sùng A Xay đã quyết tâm vượt qua tất cả sóng gió của cuộc đời để vươn lên. Một mình chèo lái đưa gia đình thoát khỏi hủ tục lạc hậu, đói nghèo, mang lại ánh sáng tương lai cho các con.
Sùng A Bua, con trai của ông Xay là người "mở đường" đi xuất khẩu lao động ở xã Trung Lý. Đến nay cả xã có 9 người đi lao động ở nước ngoài, trong đó gia đình ông Xay đã có 3 người", Chủ tịch xã Trung Lý - Trần Văn Thắng nói.